NSƯT DƯƠNG MINH ĐẨU

Nghề nghiệp: Đạo diễn Danh hiệu : Nghệ sĩ ưu tú
Ông sinh ngày 27/09/1928 tại Hà Nội, bút danh là Bùi Phương.Tham gia Cách mạng từ tháng 3/1945 tại Sài Gòn, trước khi chuyển sang hoạt động Điện ảnh, ông là giảng viên lý luận thuộc Tổng cục Chính trị.

Là một trong số người thành lập Điện ảnh Quân Đội, ông đồng thời là Giám đốc đầu tiên, liên tục trong hơn 20 năm (4/1960 - 10/1981), sau đó ông chuyển công tác sang Đài Truyền hình Việt Nam, là Phó Giám đốc Trung tâm Nghe Nhìn. Tháng 11/1989 ông nghĩ hưu.

Tác phẩm đầu tay do ông đạo diễn là phim Tài Liệu ca nhạc mang tên Văn công với Hội diễn toàn quân (1962),  rồi từ đó tới năm 1981,ông đã làm 14 phim Tài liệu dưới hình hiệu Điện ảnh Quân đội và Xưởng phim Quân giải phóng (kể từ 1965) với chức danh biên kịch kiêm đạo diễn (cũng có vài phim ông tham gia với tư cách là biên kịch hay biên hay biên tập), trong đó tiêu biểu là những phim:
  • Quyết tâm đành thắng giặc Mỹ xâm lược (sản xuất 1965 - Bông sen vàng tại LHPVN lần thứ I, 1970)
  • Vài hình ảnh Xuân 68 (Bông sen bạc cùng LHPVN lần thứ I)
  • Campuchia, đó là 3 + 4 (Giải Bồ câu vàng tại LHP quốc tế Lepdich, 1979)
  • Những điế trông thấy ở PhnôminhkienkiPênh (1979) được chiếu ra mắt Đại hội Hòa bình  thế giới tại Henxinhki vào tháng 4/1979
Thời kỳ ở Đài Truyền hình VIệt Nam, ông đã tham gia làm 20 bộ phim đủ các thể loại, trong đó ông là biên kịch của các phim Tài liệu Những người con của Apsara (1981), Khi đất và người gặp gỡ (1982), Những ngọn đèn trong đêm (1983).

Sau khi nghĩ hưu, ông là biên kịch phim Tài liệu lịch sử Miền Đông gian lao và anh dũng (1994) làm cho Quân khu 7; là biên kịch kiêm đạo diễn các phim Nam bộ kháng chiến (1996) làm cho Hãng phim Nguyễn Đình Chiểu và Phong trào Nam tiến (1997) làm cho Viện Nghệ thuật và Lưu trữ Điện ảnh.

Ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú.